Trong những năm qua, vấn
đề tranh chấp đất đai (TCĐĐ) luôn
là một vấn đề nóng bỏng thu hút sự quan tâm của đông đảo dư luận xã hội cũng
như giới truyền thông. Bởi lẽ, những hậu quả của nó có ảnh hưởng không nhỏ đến
tình hình phát triển kinh tế của đất nước cũng như trật tự an toàn xã hội. Trước
tình hình này, hiện pháp luật Việt Nam đã có những quy định tương đối cụ thể quy
định về thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai.
Trước hết, dù theo
trình tự tố tụng tại Tòa án hay trình tự giải quyết tại cơ quan hành chính thì
thủ tục hòa giải tại UBND xã vẫn là bắt buộc. Nhưng Luật đất đai 2013 có quy định
khuyến khích các bên TCĐĐ tự hòa giải hoặc giải quyết TCĐĐ thông qua hòa giải ở
cơ sở, trường hợp không hòa giải được thì gửi đơn đến UBND cấp xã nơi có đất
tranh chấp để hòa giải.
Theo quy định tại Điều
202 Luật Đất đai 2013 và khoản 1 Điều 88 của Nghị định số 43/NĐ-CP ngày
15/5/2014 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai 2013, Chủ tịch
UBND cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải TCĐĐ tại địa phương
mìnhvới thành phần Hội đồng hòa giải cấp xã là: Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch
UBND là Chủ tịch Hội đồng; các đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị
trấn; trưởng thôn, trưởng ấp đối với khu vực nông thôn; tổ trưởng tổ dân phố đối
với khu vực đô thị; đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã, phường,
thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất đó; hoặc công
chức địa chính – xây dựng – đô thị và môi trường (đối với phường, thị trấn) hoặc
địa chính – nông nghiệp – xây dựng và môi trường (đối với xã); công chức Tư
pháp – Hộ tịch xã, phường, thị trấn. Ngoài ra, tùy từng trường hợp cụ thể mà có
thể mời đại diện Hội Nông dân; Hội Phụ nữ; Hội Cựu chiến binh; Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh…
Thủ tục hòa giải TCĐĐ tại
UBND cấp xã được thực hiện trong thời hạn không quá 45 ngày kể từ ngày nhận được
đơn yêu cầu giải quyết. Qúa trình hòa giải phải được lập thành biên bản có chữ
ký của các bên và có xác nhận hòa giải thành hoặc hòa giải không thành của UBND
cấp xã. Ngoài ra, biên bản hòa giải sẽ được gửi đến các bên tranh chấp và lưu tại
UBND cấp xã nơi có đất tranh chấp.
Trường hợp hòa giải
thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới người sử dụng đất thì UBND cấp xã
gửi biên bản hòa giải đến Phòng Tài nguyên và Môi trường, đối với trường hợp
TCĐĐ giữa hộ gia đình; cá nhân; cộng đồng dân cư với nhau. Hay gửi đến Sở Tài
nguyên và Môi trường đối với các trường hợp khác để trình UBND cùng cấp quyết định
công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất và cấp mới Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất; quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất.
Hinh ảnh
Giải quyết TCĐĐ theo trình tự tố tụng (dân sự)
Việc giải quyết TCĐĐ tại
Tòa án được thực hiện theo quy định chung tại Bộ luật tố tụng dân sự. Cá nhân,
cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp để khởi
kiện vụ án tại Tòa án có thẩm quyền (Tòa án nơi có bất động sản đó).
Người khởi kiện vụ án gửi
đơn khởi kiện và tài liệu, hoặc chứng cứ đến Tòa án có thẩm quyền, để thực hiện
việc tạm ứng án phí và hoàn chỉnh hồ sơ, đơn khởi kiện theo yêu cầu của Tòa án.
Sau khi Tòa án đã thụ lý giải quyết vụ án sẽ tiến hành hòa giải để các đương sự
thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Đây là giai đoạn bắt buộc trong
quá trình giải quyết vụ án dân sự do chính Tòa án chủ trì và tiến hành. Nếu hòa
giải thành thì Tòa án sẽ lập biên bản hòa giải thành, hết 07 ngày mà các bên
đương sự không thay đổi ý kiến thì tranh chấp chính thức kết thúc. Còn nếu hòa
giải không thành thì Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử. Ngay trong quá
trình xét xử, các đương sự vẫn có thể thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ
án. Nếu không đồng ý các bên vẫn có quyền kháng cáo theo trình tự phúc thẩm.
Giải quyết TCĐĐ theo trình tự hành chính
Trình tự này sẽ được áp
dụng đối với những tranh chấp mà các đương sự không có giấy tờ chứng minh quyền
sử dụng đất theo quy định và lựa chọn giải quyết tranh chấp tại UBND. Nếu tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá
nhân, cộng đồng dân cư với nhau thì khiếu nại đến chủ thể có thẩm quyền giải
quyết là Chủ tịch UBND cấp huyện. Còn đối với một bên hoặc các bên đương sự
không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch
UBND cấp tỉnh.
Đối với tranh chấp giữa
tổ chức, cơ sở tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức nước
ngoài, cá nhân nước ngoài với nhau hoặc giữa các đối tượng đó với hộ gia đình,
cá nhân, cộng đồng dân cư thì các đương sự này có quyền khiếu nại đến Chủ tịch
UBND cấp tỉnh. Nếu một trong các bên đương sự không đồng ý với quyết định giải
quyết lần đầu này thì có quyền khiếu nại đến Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
để yêu cầu giải quyết.
Ngoài ra, trong Luật
cũng có quy định nếu đương sự không đồng ý với quyết định giải quyết tranh chấp
lần đầu thì vẫn có quyền khởi kiện tại Tòa án nhân dân theo quy định của pháp
luật tố tụng hành chính. Những quy định này tạo điều kiện thuận lợi cho các cá
nhân, cơ quan, tổ chức trong xã hội trong việc lựa chọn phương thức bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình, qua đó đảm bảo tính khách quan trong quá trình giải
quyết tranh chấp đất đai.
Nguồn: Minh Tâm – Sở Tư
pháp Quảng Nam l
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét