Một trong những vấn đề lớn trong các vụ án ly hôn
cần phải giải quyết chính là xác định tài sản chung và riêng giữa vợ và
chồng nhằm phân định sao cho hợp lý, thỏa lòng cả hai bên. Hầu hết
nhiều người vẫn còn nhập nhằng giữa tài sản trước và sau ly hôn khiên
cho những mâu thuẫn đáng có không xảy ra. Chính vì thế, pháp luật đã đưa ra một số điều khoản quy định về yếu tố này nhằm đơn giản hóa thủ tục ly hôn.
Cơ sở xác định tài sản chung của vợ và chồng trong các vụ án ly hôn
Theo điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình
2000 và Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm
phán Toà án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì:
- Tài sản chung của vợ chồng
gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản
xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời
kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho
chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
- Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được
sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ
hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản
chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
- Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu
chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì
trong giấy chứng nhận quyền sở hữu phải ghi tên của cả vợ chồng. Tuy
nhiên theo hướng dẫn của Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP, đối với tài sản
hình thành trong thời kỳ hôn nhân mà trên giấy chứng nhận quyền tài sản
chỉ ghi tên một người thì tài sản vẫn được coi là tài sản chung vợ chồng
và cả hai vợ chồng đều có quyền quản lý, sử dụng, định đoạt tài sản đó
(trừ trường hợp người vợ/người chồng chứng minh được đó là tài sản riêng
của mình).